Sáng: Quý khách dùng bữa sáng tại khách sạn. Sau bữa sáng, Đoàn trả phòng Khách sạn và khởi hành đi tham quan đập thủy điện Hoover lớn nhất nước Mỹ và hồ nhân tạo lớn nhất thế giới Lake Mead. Đây là đập thủy điện cung cấp điện cho cả bang Neveda và dẫn nước tưới tiêu cho 7 bang miền Tây Hoa Kỳ. Trưa: Quý khách ăn trưa tại nhà hàng địa phương. Tối: Xe đưa Đoàn đi ăn tối tại nhà hàng địa phương. Buổi tối, đoàn tham quan các show night tour tại Las Vegas thưởng thức các chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng. Đêm Las Vegas sống động với những vở kịch đầy màu sắc, sự kết hợp tuyệt vời giữa nhiều loại hình nghệ thuật. Nghỉ đêm tại khách sạn 3* hoặc tương đương.
NGÀY 2: INCHEON – LOS ANGELES – HOLLYWOOD CITY TOUR (Ăn 2 bữa, v/chuyển ô tô)
14:30 Đến Incheon, Đoàn tiếp tục nối chuyến bay đi Los Angeles. Ăn uống trên máy bay (KE 017 14:30 – 09:40). Nghỉ ngơi trên máy bay. Sáng: Do vượt tuyến đổi ngày, đoàn đến Los Angles cùng ngày khởi hành. Quý khách làm thủ tục nhập cảnh. Đến Los Angeles, Xe đón và đưa Quý khách tham quan: Trung tâm thương mại Phúc Lộc Thọ tại Little Saigon - nơi cộng đồng người Việt tập trung sinh sống đông nhất tại miền Nam bang California. Tham quan Nhà hát Kodak – nơi diễn ra lễ trao giải Oascar danh giá hành năm của làng điện ảnh Mỹ. Tham quan Nhà hát Trung Hoa – nơi công chiếu giới thiệu những bộ phim Hollywood trước khi tung ra thị trường. Tối: Xe đưa đoàn đi ăn tối và về Khách sạn nhận phòng nghỉ ngơi. Nghỉ đêm tại khách sạn Huntington Beach 3* hoặc tương đương.
NGÀY 5: LAS VEGAS - LOS ANGELES (Ăn ba bữa, v/chuyển ô tô)
Sáng: Ăn sáng tại khách sạn. Đoàn trả phòng Khách sạn và khởi hành về lại Los Angles. Quý khách có dịp mua sắm tại Tanger Outlet Factory, nơi mà Quý khách có thể mua sắm được những món đồ hiệu với giá rẻ bất ngờ. Trưa: Đoàn ăn trưa tại nhà hàng. Tham quan Đại Lộ Danh Vọng (Hollywood Walk of Fame) – nơi lưu danh những ngôi sao nổi tiếng có đóng góp lớn trong làng điện ảnh, truyền hình, âm nhạc của Hoa Kỳ. Phim trường Universal (option tour): Xem Nhà ma, Phim không gian 4 chiều Shrek, Đi xe Tram xem toàn cảnh phim trường, nơi ra đời các bộ phim nổi tiếng: Kingkong…thưởng thức trích đoạn “Under Water World”, Quý khách tự do tham gia các trò chơi cảm giác: “Mummy Revenge, Vượt Thác, …”. Tối: Đoàn dùng cơm chiều tại nhà hàng địa phương. Sau bữa tối, Xe đưa đoàn về khách sạn nhận phòng nghỉ ngơi.
NGÀY 1: TP.HCM – INCHEON (Ăn tối, v/chuyển máy bay)
Tối: Quý khách tập trung tại sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất. Hướng dẫn viên đón và hướng dẫn Quý khách làm thủ tục check-in. Đoàn đáp chuyến bay đi Incheon (KE 684 23:45 – 06:50).
NGÀY 6: LOS ANGELES – SÂN BAY - INCHEON
Sáng: Ăn sáng tại khách sạn Xe đưa đoàn ra sân bay đáp chuyến bay về Việt Nam. Quý khách có thể ở lại thăm thân nhân theo thời hạn visa cho phép. Máy bay cất cánh (KE 018 12: 30 – 17:50). Ăn uống, nghỉ ngơi trên máy bay.
Đến Incheon, Đoàn tiếp tục nối chuyến bay về TP.HCM (KE 683 18:40 – 22:05). Đến Sân bay Tân Sơn Nhất. Quý khách làm thủ tục check in Kết thúc chương trình. Chia tay và hẹn gặp lại Quý khách.
GIÁ DỊCH VỤ BAO GỒM: Vé máy bay khứ hồi : TP.HCM – Los Angeles – TP.HCM khách sạn 3*, 2 người 1 phòng. Phòng ba sẽ được bố trí nếu số lượng khách lẻ hoặc khách đồng ý đóng thêm tiền để ở phòng đơn. Các bữa ăn như trong chi tiết chương trình (suất ăn trưa, chiều 15 - 20USD/bữa). Xe đưa đón tham quan theo chương trình tại Mỹ. Thời gian sử dụng xe 12h/ngày. Hướng dẫn viên tiếng Việt kinh nghiệm, nhiệt tình theo đoàn suốt tuyến. Quà tặng: ba bô du lịch chuyên dụng, nón, bao da hộ chiếu. Nước suối: 02 chai/người/ngày. Bảo hiểm du lịch Quốc tế (1.500.000.000 VNĐ).
GIÁ DỊCH VỤ KHÔNG BAO GỒM: Chi phí cá nhân, hành lý quá cước, điện thoại, giặt ủi, tham quan ngoài chương trình. Phụ phí phòng đơn (nếu có). Bồi dưỡng cho Hướng dẫn viên và tài xế địa phương (8USD/khách/ngày X 7 ngày tour). Các chi phí không được đề cập trong mục bao gồm. Phí tham quan: Universal Studio, USS Midway
GHI CHÚ: ● Quý khách vui lòng xem kỹ chương trình, giá tour, phần bao gồm và không bao gồm được liệt kê chi tiết trong chương trình. ● Số ngày đi có thể thay đổi nhưng số đêm thật ở Hoa Kỳ vẫn bằng nhau. ● Chương trình có thể thay đổi thứ tự cho phù hợp với tình hình thực tế của đoàn nhưng tổng số điểm tham quan không thay đổi.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nông nghiệp ở Hoa Kỳ là ngành nông nghiệp phát triển, đứng đầu thế giới về sản lượng ngũ cốc (lúa mì, ngô...). Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 2% GDP nhưng mỗi năm cũng thu về cho đất nước khoảng 240 - 260 tỷ USD. Sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn, khoảng 75 - 80 tỉ USD mỗi năm.
Lương thực được sản xuất ra rất an toàn, có chất lượng cao, phong phú và giá cả phải chăng. Nền nông nghiệp Hoa Kỳ cũng đạt được sự dồi dào và đa dạng nhất trên thế giới.
Theo số liệu năm 2003 của FAO, hai mươi loại sản phẩm nông nghiệp đứng đầu của Hoa Kỳ là (đơn vị tính theo tấn, thứ tự xếp hạng theo giá trị của sản phẩm):
Một số loại chỉ xuất hiện trong số 20 loại sản phẩm nông nghiệp lớn nhất ở Hoa Kỳ trong vòng 40 năm trở lại đây như: thuốc lá, lúa mạch, và yến mạch, đậu phộng, hướng dương. Một số loại cỏ đã được xếp vào top 10 trong năm 2003 nếu chúng được theo dõi bởi FAO.
Giá trị các sản phẩm nông nghiệp chính từ cây trồng là:
Ghi chú: cỏ (alfalfa) và cỏ khô không được FAO theo dõi và sản xuất thuốc lá ở Hoa Kỳ đã rơi xuống trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2003.
Tiểu bang Hoa Kỳ (tiếng Anh: U.S. state) là 50 tiểu bang cùng thủ đô Washington, D.C. tạo thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Mỗi tiểu bang chia sẻ chủ quyền của mình với chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Theo luật Hoa Kỳ, các tiểu bang được xem là các thực thể có chủ quyền, nghĩa là quyền lực của các tiểu bang trực tiếp đến từ người dân của các tiểu bang đó chứ không phải là đến từ chính phủ liên bang. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ lúc đầu được thành lập khi các tiểu quốc (bang) có chủ quyền gửi một số đại diện cho chủ quyền của mình đến tham gia vào chính phủ trung ương. Tuy nhiên chủ quyền mà họ gửi đến trung ương không phải là toàn bộ vì vậy chính phủ liên bang được hưởng chủ quyền có giới hạn và các tiểu bang vẫn duy trì được bất cứ phần chủ quyền nào mà họ chưa từng nhượng lại cho chính phủ liên bang qua đại diện của họ. Vì sự chia sẻ chủ quyền như thế nên một người Mỹ vừa là công dân của toàn liên bang vừa là công dân của tiểu bang mình.[1] Bốn tiểu bang sử dụng danh xưng chính thức là thịnh vượng chung hơn là tiểu bang. Tình trạng công dân của tiểu bang thì linh động và việc đi lại giữa các tiểu bang là tự do, không cần có sự chấp thuận của chính phủ liên bang hay tiểu bang (ngoại trừ những trường hợp tội phạm đang bị quản thúc).
Hiến pháp Hoa Kỳ phân chia quyền lực giữa hai cấp bậc chính quyền. Bằng việc chấp thuận thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ, người dân của các tiểu bang đã thuyên chuyển một số quyền lực có giới hạn của chủ quyền tiểu bang sang cho chính phủ liên bang. Theo tu chính án 10, tất cả quyền lực chưa được trao cho chính phủ liên bang Hoa Kỳ, hoặc bị cấm chuyển giao, đều được các tiểu bang hoặc nhân dân tiểu bang đó giữ lại. Trong lịch sử, các nhiệm vụ như an ninh công cộng (có nghĩa là kiềm chế tội phạm), giáo dục công cộng, ý tế công cộng, giao thông và hạ tầng cơ sở thông thường được xem là trách nhiệm chính của tiểu bang mặc dù tất cả những nhiệm vụ này hiện nay cũng do chính phủ liên bang tài trợ và áp đặt những quy định khá nổi bật (phần lớn dựa vào điều khoản nói về thương mại, điều khoản về thuế và chi tiêu, và điều khoản về nhu yếu và hợp lý được nêu trong Hiến pháp Hoa Kỳ).
Theo thời gian, Hiến pháp Hoa Kỳ được tu chính nhiều lần. Kết quả là sự diễn giải và việc áp dụng các điều khoản của Hiến pháp cũng thay đổi theo. Chiều hướng tổng thể hiện nay là đang đi dần về hướng tập quyền và hợp nhất với việc chính phủ liên bang đóng một vai trò rộng lớn hơn nhiều so với xưa kia. Có một cuộc tranh luận đang tiếp diễn về quyền của các tiểu bang liên quan đến tầm mức và bản chất quyền lực và chủ quyền của các tiểu bang so với chính phủ liên bang cũng như quyền của từng cá nhân.
Quốc hội Hoa Kỳ có thể thu nhận thêm các tiểu bang mới trên căn bản bình quyền với các tiểu bang hiện hữu; điều này đã xảy ra gần đây nhất là vào năm 1959 khi Hawaii và Alaska được thu nhận vào liên bang. Trong tương lai, Quốc hội Hoa Kỳ có thể sẽ xem xét thu nhận Puerto Rico thành tiểu bang thứ 51 vì theo cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 2012, cử tri Puerto Rico đã bác bỏ sít sao tình trạng chính trị hiện tại (câu hỏi thứ nhất) và chấp thuận áp đảo việc trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ như là một chọn lựa ưng ý (câu hỏi thứ hai).[2] Hiến pháp Hoa Kỳ không có đề cập đến câu hỏi rằng liệu các tiểu bang có quyền đơn phương rời bỏ, hay ly khai khỏi liên bang hay không nhưng Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã có phán quyết[3][4] rằng ly khai là vi hiến, đây là một lập trường bị tác động một phần bởi kết quả của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.
Từ thập niên 1930, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã diễn giải Mệnh đề Thương mại nằm trong Hiến pháp Hoa Kỳ theo cách mở rộng làm cho tầm mức quyền lực liên bang mở rộng đáng kể. Ví dụ, Quốc hội Hoa Kỳ có thể đưa ra những quy định kiểm soát giao thông đường sắt nào chạy qua ranh giới giữa các tiểu bang. Tuy nhiên quốc hội cũng có thể đưa ra những quy định kiểm soát giao thông đường sắt chỉ nằm hoàn toàn bên trong một tiểu bang, dựa trên ý tưởng cho rằng giao thông nằm hoàn toàn trong một tiểu bang vẫn có thể gây ra ảnh hướng đối với nền thương mại liên-tiểu bang.
Một nguồn quyền lực khác của Quốc hội là quyền chi tiêu - đó là khả năng của quốc hội áp đặt các loại thuế đồng bộ trên khắp Hoa Kỳ và rồi phân phát nguồn tiền thuế thu được trở về các tiểu bang (theo những điều kiện mà Quốc hội ấn định). Một ví dụ cổ điển của vấn đề này là hệ thống quốc lộ do liên bang tài trợ trong đó bao gồm Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Hệ thống này được chính phủ liên bang tài trợ và quản lý nhưng nó cũng phục vụ lợi ích của các tiểu bang. Bằng cách đe dọa giữ lấy tiền quỹ xa lộ liên bang, như được phán quyết trong vụ kiện South Dakota đối đầu Dole, Quốc hội Hoa Kỳ đã có thể gây áp lực với các nghị viện tiểu bang thông qua vô số các luật lệ khác nhau. Mặc dù một số tiểu bang chống đối rằng điều này vi phạm quyền của tiểu bang nhưng Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên phán quyết theo hướng thuận lợi cho Quốc hội Hoa Kỳ vì cho rằng Quốc hội đã sử dụng hợp lý Mệnh đề Chi tiêu nằm trong Hiến pháp Hoa Kỳ.
Mỗi tiểu bang được quyền tự do tổ chức chính quyền cá biệt của mình theo bất cứ hình thức nào mà mình thích miễn sao chính quyền tiểu bang phải tuân thủ một điều kiện duy nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ rằng họ có "một chính thể cộng hòa" (có nghĩa rằng mỗi chính phủ tiểu bang phải là một chính phủ cộng hòa; nó không có ý nói đến đảng Cộng hòa, là đảng chưa được thành lập cho mãi đến năm 1854—trên 60 năm sau khi Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua). Trên thực tế, mỗi tiểu bang đều áp dụng một hệ thống chính quyền gồm ba ngành (lập pháp, hành pháp và tư pháp) giống như chính phủ liên bang - mặc dù điều này không phải là bắt buộc.
Thống đốc tiểu bang, “tổng thống tiểu bang”, người này sau đó chọn lựa các thành viên nội các của mình để những thành viên này chịu trách nhiệm đối với mình thì đa số các tiểu bang có một "hệ thống hành pháp đa diện" trong đó nhiều thành viên khác nhau của ngành hành pháp được người dân trực tiếp bầu lên. Như thế, những người này phục vụ trong vai trò là thành viên của ngành hành pháp nhưng không phải chịu sự kiềm chế hay chi phối của tổng thống và tổng thống cũng không thể bãi chức họ.
Ngành lập pháp của 49 trong số 50 tiểu bang gồm có hai viện: một hạ viện (tiếng Anh gọi là House of Representatives, State Assembly hay House of Delegates) và một thượng viện nhỏ hơn, luôn được gọi trong tiếng Anh là Senate. Ngoại lệ là ngành lập pháp độc viện của tiểu bang Nebraska có một viện duy nhất.
Khác biệt chính giữa các tiểu bang là rằng nhiều tiểu bang ít dân số có các nghị viện bán-thời gian trong khi các tiểu bang có dân số đông thì có chiều hướng là những nghị viện toàn thời gian. Tiểu bang Texas, tiểu bang đông dân thứ hai, là một ngoại lệ đáng nói: trừ khi có các phiên họp đặc biệt, ngành lập pháp Texas bị pháp luật hạn chế thời gian hoạt động là 140 ngày cho mỗi hai năm.
Trong vụ kiện Baker đối đầu Carr (1962) và Reynolds đối đầu Sims (1964), Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ phán quyết rằng tất cả các tiểu bang phải tuân thủ việc bầu lên ngành lập pháp của mình trong một thể thức sao cho mỗi công dân tiểu bang đều có một cấp độ đại diện tương đồng. Điều này được hiểu theo ý nghĩa phổ thông là "một người một phiếu bầu". Trong thực tế, đa số tiểu bang chọn bầu các nhà lập pháp theo từng khu vực và chỉ chọn một người duy nhất cho từng khu vực bầu cử. Các khu vực bầu cử như thế có dân số xấp xỉ bằng nhau. Một số tiểu bang khác như Maryland và Vermont, phân chia tiểu bang của mình thành những khu vực bầu cử khác nhau: có khu chỉ chọn duy nhất một thành viên lập pháp, có khu chọn nhiều thành viên lập pháp tùy thuộc vào dân số của từng khu. Ví dụ khu vực bầu cử chọn hai đại biểu phải có dân số xấp xỉ gấp đôi khu bầu cử chọn một đại biểu và theo tỉ lệ như vậy cho các khu bầu cử chọn nhiều đại biểu hơn.
Tiểu bang cũng có thể tổ chức hệ thống tư pháp khác biệt so với hệ thống tư pháp liên bang miễn sao các tòa án này bảo vệ quyền hiến định của công dân tiểu bang theo đúng trình tự pháp lý công chính. Đa số tiểu bang có một tòa án cấp bậc xét xử được gọi là District Court hay Superior court, một tòa án thượng thẩm cấp một thường được gọi là Court of Appeal hay Appeals, và một tối cao pháp viện. Tuy nhiên, tiểu bang Oklahoma và Texas có các tòa án cấp bật cao nhất riêng biệt để xem xét chống án cho các vụ án tội phạm. Tiểu bang New York nổi tiếng vì sử dụng thuật từ khác thường như việc tòa án xét xử được gọi là Tối cao Pháp viện. Các vụ chống án được đưa đến Tối cao Pháp viện thuộc Phân bộ Thượng thẩm, và từ đó được đưa lên Tòa Thượng thẩm. Đa số tiểu bang sử dụng luật phổ thông của Anh làm căn bản cho hệ thống pháp lý của mình, trừ tiểu bang Louisiana là đặc biệt vì áp dụng phần lớn hệ thống pháp lý của mình dựa trên căn bản luật dân sự của Pháp.
Chỉ có một ít tiểu bang chọn lựa việc cho phép các quan tòa tại các toà án tiểu bang phục vụ trọn đời. Đa số các quan tòa tiểu bang trong đó có các thẩm phán tại các tòa án cấp cao nhất đều được bầu lên hay được bổ nhiệm với những nhiệm kỳ phục vụ có giới hạn số năm, ví dụ là 5 năm. Họ thường được bầu lại hay bổ nhiệm lại nếu như họ được xét thấy là làm việc đáng được ngồi lại tại chức.
Năm 2010, mục chi tiêu lớn nhất từ ngân sách của đa số các tiểu bang là hệ thống giáo dục công cộng.[5]
Năm 2010, 41 tiểu bang trả lương cho nhân viên chính quyền nhiều hơn là trong lãnh vực tư nhân. Tiền lương trung bình nhiều hơn kể từ năm 2003 phần lớn là do giá cả chăm sóc sức khỏe tăng cao đối với các công nhân làm việc cho tư nhân và lợi ích hồi hưu gia tăng cho nhân viên chính quyền.[6]
Theo Điều khoản 4 Hiến pháp Hoa Kỳ là điều khoản phác thảo ra mối quan hệ giữa các tiểu bang thì Quốc hội Hoa Kỳ có quyền cho phép các tiểu bang mới được gia nhập vào liên bang. Các tiểu bang được yêu cầu phải đặt niềm tin và tín nhiệm hoàn toàn đối với các đạo luật của ngành lập pháp và tòa án của nhau, thường thường bao gồm việc công nhận các bản khế ước pháp lý, hôn thú, các phán quyết đối với tội phạm, và đặc biệt là trước năm 1865 còn có tình trạng của người nô lệ. Nghiêm cấm các tiểu bang kỳ thị công dân của các tiểu bang khác về quyền cơ bản của họ chiếu theo Mệnh đề Miễn trừ và Đặc quyền (Privileges and Immunities Clause) trong Hiến pháp. Các tiểu bang được chính phủ liên bang bảo đảm về dân phòng và quân sự và ngược lại chính phủ liên bang cũng được yêu cầu là phải chắc chắn rằng mỗi tiểu bang vẫn luôn là một nền cộng hòa.
Bốn tiểu bang sử dụng danh xưng thịnh vượng chung hơn là tiểu bang.[7] Tuy nhiên, đây là chỉ là hình thức khác biệt trên giấy tờ vì Hiến pháp Hoa Kỳ gọi chung tất cả là "các tiểu bang", như trong Điều khoản 1, Đoạn 2, Mệnh đề 1 của Hiến pháp nói về Hạ viện Hoa Kỳ có ghi rằng những dân biểu phải được bầu lên bởi người dân của "các tiểu bang". Hơn nữa, Điều khoản 1, Đoạn 3, Mệnh đề 1 nói về Thượng viện Hoa Kỳ có ghi rằng mỗi "tiểu bang" được hai thượng nghị sĩ. Như vậy, tất cả các thịnh vượng chung như đã nói ở trên đều được tính như là các tiểu bang.
Kể từ khi thành lập Hợp chúng quốc châu Mỹ (Hoa Kỳ), con số các tiểu bang mở rộng từ 13 lên đến 50. Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ nói khá ngắn gọn về tiến trình mà các tiểu bang mới có thể được thêm vào liên bang như sau "các tiểu bang mới có thể được Quốc hội Hoa Kỳ cho phép gia nhập" và cấm một tiểu bang mới được thành lập từ lãnh thổ của một tiểu bang hiện hữu, hay nhập hai hoặc nhiều tiểu bang lại thành một mà không có sự ưng thuận của cả Quốc hội Hoa Kỳ và tất cả các nghị viện tiểu bang có liên quan.
Trong thực tế, đa số các tiểu bang được phép gia nhập liên bang, sau 13 tiểu bang ban đầu, đều được thành lập từ các lãnh thổ hợp nhất có tổ chức. Các lãnh thổ này là những vùng đất nằm dưới chủ quyền của chính phủ liên bang nhưng không phải là một phần đất nào của bất cứ tiểu bang nào. Phần lớn là những vùng đất mới mà Hoa Kỳ chiếm được hay thu được khi mở rộng lãnh thổ trong lịch sử. Quốc hội Hoa Kỳ sử dụng Mệnh đề Lãnh thổ nằm trong Điều khoản IV, Đoạn 3, Hiến pháp Hoa Kỳ để tổ chức chính quyền tự trị cho các lãnh thổ này nhưng chúng vẫn nằm dưới thẩm quyền toàn phần của Quốc hội.[8] Các trường hợp ngoại lệ còn gồm có ba tiểu bang đã được tách ra từ phần đất của các tiểu bang gốc với sự cho phép của nghị viện của các tiểu bang đó: Vermont, tiểu bang thứ 14; Kentucky, tiểu bang thứ 15; Tây Virginia, tiểu bang thứ 36; và rồi Texas, một Cộng hòa Texas độc lập trong một thập niên, tiểu bang thứ 34; và California, được gia nhập liên bang vào năm 1850 trực tiếp từ phần đất mới thu được từ tay México.
Nói chung, chính quyền được tổ chức của một lãnh thổ luôn tìm cách tạo cho dân chúng của mình mong muốn được trở thành tiểu bang. Lúc đó, Quốc hội chỉ đạo cho chính quyền lãnh thổ tổ chức một hội nghị hiến pháp để viết ra hiến pháp tiểu bang. Sau khi hiến pháp tiểu bang được chấp thuận, Quốc hội Hoa Kỳ luôn chấp thuận cho phép lãnh thổ đó trở thành tiểu bang. Những phác thảo tổng thể trong tiến trình này được thiết lập bởi Sắc lệnh Tây Bắc (Northwest Ordinance) năm 1787 mà đã có từ trước khi Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua.
Tuy nhiên, Quốc hội có quyền lực tối hậu đối với việc cho phép các tiểu bang mới gia nhập liên bang và không bị ràng buộc phải theo đúng tiến trình. Một số ít tiểu bang của Hoa Kỳ (không kể 13 tiểu bang gốc) chưa bao giờ được tổ chức thành những lãnh thổ của chính phủ liên bang nhưng vẫn được chấp thuận gia nhập liên bang:
Quốc hội Hoa Kỳ cũng không bị bắt buộc phải thu nhận các tiểu bang mới thậm chí tại những vùng mà dân chúng tỏ ra mong muốn trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ. Ví dụ, Cộng hòa Texas đã yêu cầu Hoa Kỳ sáp nhập mình vào liên bang năm 1837, nhưng vì Hoa Kỳ sợ phải có xung đột với Mexico nên Hoa Kỳ phải trì hoãn thu nhận Texas đến 9 năm.[9] Lãnh thổ Utah bị từ chối xin gia nhập liên bang trong nhiều thập niên vì không hài lòng với sự chi phối của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô tại lãnh thổ. Giáo hội này muốn đặt tên cho vùng này là "Deseret" (Kinh thánh Đạo Mormon) vì liên hệ của giáo hội với Đạo Mormon, và đặc biệt nhất là sự thực hành chế độ đa thê ngày đó của Đạo Mormon. Một khi được thành lập, ranh giới của các tiểu bang phần lớn là không thay đổi. Ngoại trừ các trường hợp như việc Maryland và Virginia nhượng đất của mình cho chính phủ liên bang thành lập Đặc khu Columbia (phần đất của Virginia sau đó được trả lại) và trường hợp lập ra các tiểu bang từ các tiểu bang đã có trong đó phải kể là việc thành lập tiểu bang Kentucky và Tây Virginia từ Virginia, Maine từ Massachusetts, và Tennessee từ Bắc Carolina.
Ngày nay, có một vài lãnh thổ của Hoa Kỳ còn sót lại mà có thể có tiềm năng trở thành các tiểu bang mới. Ứng viên khả dĩ nhất có thể là Puerto Rico. Puerto Rico đã nằm dưới chủ quyền của chính phủ liên bang Hoa Kỳ hơn một thế kỷ và người Puerto Rico là công dân Hoa Kỳ kể từ năm 1917; nhưng tình trạng chính trị tối hậu của hòn đảo này vẫn chưa được định đoạt tính đến năm 2011. Vì là một lãnh thổ, không phải là tiểu bang của Hoa Kỳ nên cư dân của nó không có đại biểu có quyền biểu quyết trong Quốc hội Hoa Kỳ. Quốc hội Hoa Kỳ đã chỉ thị cho chính quyền địa phương tổ chức đại hội hiến pháp để viết ra Hiến pháp Puerto Rico năm 1951. Hiến pháp này được cử tri đoàn Puerto Rico, Quốc hội và Tổng thống Hoa Kỳ chấp thuận vào năm 1952. Puerto Rico chính thức đặt tên cho mình là "Thịnh vượng chung Puerto Rico". Hiện nay, Puerto Rico chỉ có một đại biểu không quyền biểu quyết trong Quốc hội Hoa Kỳ, được gọi là Ủy viên Cư dân Puerto Rico.[10] Tổng thống George H. W. Bush ban hành một bản ghi nhớ ngày 30 tháng 11 năm 1992 đến các bộ trưởng và những người đứng đầu các cơ quan nhằm thiết lập mối quan hệ hành chính hiện thời giữa chính phủ liên bang và Thịnh vượng chung Puerto Rico. Bản ghi nhớ này chỉ thị cho tất cả các bộ hành chính, cơ quan và viên chức liên bang đối xử với Puerto Rico về mặt hành pháp giống như là một tiểu bang.[11]
Chính quyền thịnh vượng chung đã tổ chức một số cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề tình trạng chính trị trong một vài thập niên qua mặc dù Quốc hội Hoa Kỳ không công nhận những cuộc trưng cầu dân ý này là có giá trị; tất cả các cuộc trưng cầu cho thấy kết quả chiến thắng khích khao ủng hộ tình trạng chính trị như hiện nay hơn là trở thành tiểu bang trong khi đó vấn đề độc lập chỉ thu được một con số ít ỏi phiếu bầu. Ngày 23 tháng 12 năm 2000, Tổng thống Bill Clinton ký Lệnh hành pháp 13183, thiết lập Lực lượng Đặc nhiệm Tổng thống đặc trách về Tình trạng chính trị của Puerto Rico và những luật lệ thành viên cho nó. Đoạn 4 trong Lệnh hành pháp 13183 (như đã được tu chính bởi Lệnh hành pháp 13319) chỉ thị cho lực lượng đặc nhiệm "báo cáo các công tác của lực lượng cho tổng thống... về tiến triển đã được thực hiện trong việc quyết định tình trạng tối hậu của Puerto Rico".[12]
Tổng thống George W. Bush ký thêm một tu chính án của Lệnh hành pháp 13183 ngày 3 tháng 12 năm 3, 2003, thành lập các đồng-chủ tọa hiện tại và chỉ thị cho lực lượng đặc nhiệm phát hành các bản báo cáo khi cần thiết, nhưng không dưới một lần báo cáo cho mỗi 2 năm. Tháng 12 năm 2005, lực lượng đặc nhiệm tổng thống đề nghị một loại trưng cầu dân ý mới về vấn đề này; nếu Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết theo như sự đề nghị của lực lượng đặc nhiệm thì nó sẽ trải đường cho các cuộc bầu cử được Quốc hội Hoa Kỳ hậu thuẫn lần đầu tiên về tình trạng chính trị của hòn đảo, và (có tiềm năng) hòn đảo trở thành tiểu bang vào năm 2011. Bản báo cáo tình trạng tháng 12 năm 2007 của lực lượng đặc nhiệm tái lập lại và xác nhận những lời đề nghị của lực lượng vào năm 2005.[12][13][14]
Ngày 29 tháng 4 năm 2010, Hạ viện Hoa Kỳ biểu quyết với tỉ lệ 223–169 chấp thuận Đạo luật Dân chủ Puerto Rico 2010 nhằm tiến hành việc cho phép Puerto Rico tự quyết định xếp đặt một cuộc trưng cầu dân ý mới mà trải đường cho một cuộc biểu quyết do Quốc hội Hoa Kỳ hậu thuẫn lần đầu tiên về tình trạng chính trị của hòn đảo, và (có tiềm năng) trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ vào năm 2011.[15] Tuy nhiên, đạo luật này không được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận và sau đó bị khai tử khi Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ 111 khai mạc.
Ý định của những vị cha già dân tộc Mỹ là thủ đô của Hoa Kỳ phải ở một nơi trung lập, không thiên vị bất cứ tiểu bang nào; kết quả là, Đặc khu Columbia được thành lập năm 1800 để làm nơi làm việc chính thức của chính phủ liên bang. Cư dân của Đặc khu không có người đại diện toàn phần cho họ trong Quốc hội Hoa Kỳ cũng như họ không có một chính quyền được bầu lên có chủ quyền (cư dân của Đặc khu được chia 3 đại cử tri tổng thống theo tu chính án hiến pháp 23, và có một đại biểu không quyền biểu quyết trong Quốc hội Hoa Kỳ). Một số cư dân trong Đặc khu ủng hộ việc đặc khu trở thành tiểu bang với một số hình thức như - toàn thể đặc khu trở thành tiểu bang hay chỉ một phần nào đó của đặc khu và phần còn lại vẫn nằm dưới thẩm quyền liên bang. Mặc dù tình trạng tiểu bang tại Đặc khu vẫn luôn là câu hỏi chính trị sống động nhưng viễn cảnh vận động cho chiều hướng đó trong tương lai gần thì dường như mù mịt. Thay vào đó, người ta nhấn mạnh đến việc tiếp tục duy trì chính quyền tự quản trong khi đó mong muốn Đặc khu được ban cho một phiếu bầu tại Quốc hội.
Theo Điều khoản IV, Đoạn 3 Hiến pháp Hoa Kỳ, "các tiểu bang mới có thể được thu nhận vào liên bang này bởi Quốc hội Hoa Kỳ; nhưng không có tiểu bang mới nào được thành lập hay được dựng lên trong khu vực thẩm quyền của bất cứ tiểu bang nào khác; cũng không có bất cứ tiểu bang nào được thành lập bằng cách nhập hai hoặc nhiều hơn các tiểu bang lại với nhau, hay những phần đất của các tiểu bang mà không có sự ưng thuận của các nghị viện của các tiểu bang có liên quan cũng như của Quốc hội Hoa Kỳ."[16] Đây là trường hợp khi Maine được tách ra khỏi Massachusetts; và khi Tây Virginia được tách ra từ Virginia trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Khi Texas được phép gia nhập vào liên bang năm 1845, nó lớn hơn bất cứ tiểu bang nào khác rất nhiều và đặc biệt là nó được quyền phân chia chính nó lên thành 5 tiểu bang khác nhau.[17]
Hiến pháp Hoa Kỳ vắng tiếng đối với vấn đề một tiểu bang ly khai khỏi liên bang. Tuy nhiên, tài liệu tiền thân của nó là Các điều khoản Hợp bang có nói rằng Hợp chúng quốc "sẽ là vĩnh viễn". Câu hỏi là liệu các cá thể tiểu bang có quyền đơn phương ly khai hay không. Câu hỏi này vẫn từng là một câu hỏi gây chia rẽ và khó khăn cho đến lúc Nội chiến Hoa Kỳ. Năm 1860 và 1861, mười một tiểu bang miền Nam ly khai nhưng chúng bị đưa trở lại liên bang trong suốt thời kỳ được gọi là "Thời đại Tái thiết" sau khi chúng bại trận trong Nội chiến Hoa Kỳ. Chính phủ liên bang chưa bao giờ công nhận sự ly khai của bất cứ tiểu bang nổi loạn nào. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, trong vụ xử Texas đối đầu White, phán quyết rằng các tiểu bang không có quyền ly khai và rằng bất cứ hành động ly khai nào cũng đều coi như không có giá trị pháp lý. Bằng cách trích dẫn phần mở đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ là phần nói rằng Hiến pháp được viết ra với ý định "thành lập một liên bang hoàn hảo hơn" và đại diện tiếng nói của nhân dân Hoa Kỳ hữu hiệu như một nền chính trị độc nhất cũng như ngôn ngữ của Các điều khoản Hợp bang, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ luôn duy trì không thay đổi lập trường rằng các tiểu bang không có quyền ly khai. Tuy nhiên, tòa án ám thị trong cùng phán quyết rằng có thể có những thay đổi như thế xảy ra "qua cách mạng, hay qua sự ưng thuận của các tiểu bang", có nghĩa thiết thực rằng phán quyết này luôn cho rằng không có tiểu bang nào có quyền đơn phương quyết định rời liên bang.[3][4]
Bốn trong số các tiểu bang của Hoa Kỳ mang danh xưng là thịnh vượng chung: Kentucky, Massachusetts, Pennsylvania, và Virginia. Tại các tiểu bang này, danh xưng "thịnh vượng chung" chỉ là cái tên lịch sử và cái tên như thế không có ảnh hưởng pháp lý gì cả. Danh xưng này có vẻ gây chút nhầm lần bởi vì các lãnh thổ của Hoa Kỳ là Quần đảo Bắc Mariana và Puerto Rico cũng được gọi là các thịnh vượng chung. Danh xưng như thế không khiến các tiểu bang vừa kể có tình trạng pháp lý khác biệt so với tình trạng pháp lý của các tiểu bang khác của Hoa Kỳ. Hai vùng quốc hải có danh xưng thịnh vượng chung (Quần đảo Bắc Mariana và Puerto Rico) là các lãnh thổ chưa hợp nhất (chưa vĩnh viễn thuộc về Hoa Kỳ: có thể giữ nguyên tình trạng chính trị hiện nay, gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang mới hay tách rời để trở thành quốc gia độc lập) của Hoa Kỳ.
Các tiểu bang có thể được phân nhóm thành các vùng; có vô số cách phân vùng và phân nhóm khác nhau vì đa số các tiểu bang không được xác định theo ranh giới văn hóa hay địa lý rõ rệt nào. Để biết thêm chi tiết về các vùng của Hoa Kỳ, xin xem Danh sách các vùng của Hoa Kỳ.
Bản sau đây liệt kê từng tiểu bang trong số 50 tiểu bang của Hoa Kỳ cùng với các số liệu và thông tin:
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về
có văn bản gốc Anh ngữ liên quan với bài:
Không lực Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States Air Force; viết tắt: USAF), cũng được gọi là Không quân Hoa Kỳ hay đơn giản hơn là Không quân Mỹ, là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong số các lực lượng đồng phục Hoa Kỳ. Từng trực thuộc Lục quân Hoa Kỳ, Không lực Hoa Kỳ được thành lập với vai trò là một quân chủng riêng biệt vào ngày 18 tháng 9 năm 1947 dưới Đạo luật An ninh Quốc gia năm 1947.[1] Không lực là một quân chủng mới nhất được thành lập của Quân đội Hoa Kỳ. Trong lời mở đầu về vị thế của mình, Không lực Hoa Kỳ nêu rõ các mục tiêu chính của mình như sau: "Cảnh giác toàn cầu, vươn tới toàn cầu, và sức mạnh toàn cầu".[2]
Tính đến năm 2009, Không lực Hoa Kỳ đang sử dụng khoảng 5.573 máy bay có người lái (3.990 chiếc hiện diện; 1.213 chiếc thuộc lực lượng Không lực Vệ binh quốc gia (Air National Guard); và 370 chiếc thuộc Lực lượng Không lực Trừ bị);[3] khoảng 180 phi cơ chiến đấu không người lái, 2.130 tên lửa hành trình phóng từ phi cơ,[4] và 450 tên lửa đạn đạo liên lục địa. Không lực Hoa Kỳ có khoảng 327.452 binh sĩ và nhân viên hiện dịch, 115.299 trong các lực lượng trừ bị sẵn sàng chiến đấu, và 106.700 thuộc lực lượng Không lực Vệ binh Quốc gia tính đến tháng 9 năm 2008. Ngoài ra, Không lực Hoa Kỳ thuê mướn khoảng 171.313 nhân viên dân sự,[5] và có khoảng 57.000 thành viên hỗ trợ trong lực lượng tuần tra hàng không dân sự.[6]
Bộ Không lực được một bộ trưởng dân sự lãnh đạo. Bộ trưởng này trông coi tất cả các công việc về chính sách cũng như hành chính. Bộ Không lực Hoa Kỳ là một bộ phận trực thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Sĩ quan cao cấp nhất Bộ Không lực Hoa Kỳ là Bộ trưởng Không lực Hoa Kỳ (Secretary of the Air Force).
Theo Đạo luật an ninh quốc gia năm 1947 tạo ra Không lực Hoa Kỳ (USAF):
"Nói chung, Không lực Hoa Kỳ sẽ bao gồm cả lực lượng hàng không chiến đấu và các dịch vụ không được giao. Nó sẽ được tổ chức, huấn luyện và trang bị cho các hoạt động không thường xuyên và phòng thủ lâu dài. Không lực có trách nhiệm chuẩn bị các lực lượng không lực cần thiết cho việc tiến hành chiến tranh hiệu quả trừ khi được giao theo cách khác và, phù hợp với các kế hoạch huy động chung, để mở rộng các thành phần thời bình của Không lực để đáp ứng nhu cầu chiến tranh."
Bộ Luật Hoa Kỳ số 10 quy định mục đích của USAF như sau:
Nhiệm vụ được tuyên bố của USAF hôm nay là "bay, chiến đấu, và giành chiến thắng trong không trung, không gian, và không gian ảo"
Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ đã tạo tiền đề cho sự ra đời của Không lực Hoa Kỳ vào năm 1907. Sau một loạt các thay đổi về cách tổ chức, tên gọi và hoàn thành các nhiệm vụ trong suốt khoảng thời gian 40 năm sau đó, Không lực Hoa Kỳ được tách ra thành một quân chủng riêng biệt. Trong chiến tranh thế giới thứ II, gần 68.000 phi công Mỹ đã hy sinh góp phần giành lấy chiến thắng cho quân Đồng minh, chỉ lực lượng bộ binh có số lượng thương vong nhiều hơn số lượng nhập ngũ.[7] Trong thực tế, USAF hầu như hoạt động độc lập trong Quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ II, nhưng các quan chức muốn có một sự độc lập chính thức. Không lực Hoa Kỳ trở thành một quân chủng riêng biệt vào ngày 18 tháng 9 năm 1947 bằng việc thông qua Đạo luật An ninh Quốc gia năm 1947.[8] Đạo luật dùng để thành lập Bộ phận Quân sự Quốc gia Hoa Kỳ (sau này được đổi tên thành Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ năm 1949), bao gồm ba bộ trực thuộc là Bộ Lục quân Hoa Kỳ, Bộ Hải quân Hoa Kỳ và bộ mới là Bộ Không lực Hoa Kỳ.[9] Trước năm 1947, trách nhiệm về không lực được chia sẻ giữa Lục quân Hoa Kỳ (cho các chiến dịch trên bộ), Hải quân Hoa Kỳ (cho các chiến dịch trên biển từ các hàng không mẫu hạm và các thủy phi cơ), và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (để hỗ trợ không yểm các chiến dịch trên bộ). Nhưng thập niên 40 đã chứng kiến sự thay đổi vượt bậc và là sự bắt đầu cho một kỷ nguyên mới của ngành hàng không, tiêu biểu là phi công Chuck Yeager - người đã vượt qua tốc độ âm thanh bằng chiếc phi cơ X-1 năm 1947.[10]
Các tên gọi trước kia của Không lực Hoa Kỳ là:
Kể từ năm 2005, Không lực Hoa Kỳ đã đặt tập trung mạnh vào việc cải thiện đào tạo quân sự cơ bản (BMT). Các khóa luyện tập đã trở nên dài hơn, cùng với đó là sự xuất hiện của giai đoạn thực nghiệm mô phỏng. Giai đoạn này được gọi là BEAST, là nơi các học viên được thực hành trong một môi trường siêu thực mà họ có thể tích lũy kinh nghiệm như khi được lái một chiếc phi cơ thực sự. Trong khóa huấn luyện này, các giảng viên (MTI) đảm nhiệm vai trò như các cố vấn hoặc lực lượng của đối phương trong các bài huấn luyện. Năm 2007, Không lực Hoa Kỳ gặp phải sự cắt giảm lực lượng vì ngân sách và có kế hoạch giảm lực lượng từ 360.000 quân nhân hiện dịch xuống còn 316.000.[11] Con số lực lượng hiện dịch vào năm 2007 chỉ bằng khoảng 64% lực lượng khi kết thúc Chiến tranh vùng vịnh năm 1991.[12] Tuy nhiên, sự cắt giảm chấm dứt khi quân số giảm đến khoảng 330.000 người vào năm 2008 để đáp ứng nhu cầu cho sứ mệnh.[11] Sự thắt lưng buộc bụng này đã khiến cho số giờ bay huấn luyện cho phi công giảm xuống rất nhiều từ năm 2005[13] và phó tham mưu trưởng đặc trách nhân sự phải điều hành việc kiểm tra đánh giá bay cho các phi công[14].
Ngày 5 tháng 6 năm 2008, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert M. Gates chấp thuận đơn từ chức của cả hai Bộ trưởng Không lực Hoa Kỳ Michael W. Wynne và Tham mưu trưởng Không lực Hoa Kỳ, tướng T. Michael Moseley. Bộ trưởng Quốc phòng Gates thật sự bãi nhiệm cả hai người này vì "những vấn đề có liên quan đến các công tác tiến hành thực thi và tập trung sứ mệnh hạt nhân của Không lực Hoa Kỳ đang bị giảm sút một cách có hệ thống". Việc này theo sau một vụ điều tra về hai sự kiện đáng xấu hổ có liên quan đến việc xử lý bất cẩn vũ khí hạt nhân, và cũng là điểm đỉnh tranh cãi giữa ban lãnh đạo không quân và Gates.[15] Để tập trung hơn vào việc quản lý vũ khí hạt nhân, Không lực Hoa Kỳ đã thiết lập ra bộ tư lệnh hạt nhân chiến đấu toàn cầu của Không quân Hoa Kỳ vào ngày 24 tháng 19 năm 2008.[16]
Ngày 26 tháng 6 năm 2009, không lực đưa ra một chương trình tái tổ chức lực lượng nhằm cắt giảm các phi cơ chiến đấu và chuyển nguồn tài lực sang cho chiến tranh thông tin, bất qui ước và hạt nhân.[17] Ngày 23 tháng 7 năm 2009, Không lực Hoa Kỳ đưa ra chương trình bay của hệ thống phi cơ không người lái trong đó nêu ra chi tiết về các kế hoạch dành cho phi cơ không người lái đến năm 2047.[18] Một phần ba số phi cơ mà Không lực Hoa Kỳ dự định mua trong tương lại là phi cơ không người lái.[19]
Không lực Hoa Kỳ hiện xử lý 90% các hoạt động không gian quân sự thông qua Bộ Tư lệnh Không gian và được chỉ định là dịch vụ chính cho không gian. 70% số vệ tinh hiện đang ở trong quỹ đạo thuộc về và được điều khiển bởi Không lực.
Những nhiệm vụ của Không Lực trong không gian được định nghĩa bao gồm:
Tăng cường Không gian Vũ trụ là: Hoạt động hỗ trợ chiến đấu và khả năng nhân lực từ các hệ thống không gian nhằm nâng cao hiệu quả của lực lượng quân đội cũng như hỗ trợ những người đặc biệt, dân sự và ngành thương mại khá, trinh sát, đánh giá tấn công tổng hợp, chỉ huy, kiểm soát và truyền thông, định vị, điều hướng, thời gian và giám sát môi trường.
Ứng dụng Không gian Vũ trụ là: Hoạt động chiến đấu trong, giữa và ngoài không gian để ảnh hưởng đến quá trình và kết quả của cuộc xung đột. Khu vực này bao gồm phòng thủ tên lửa đạn đạo và chiếu quân.
Kiểm soát không gian là: Các hoạt động để đảm bảo quyền tự do hành động trong không gian cho Hoa Kỳ và các đồng minh của họ khi được hướng dẫn, phủ nhận hành động tự nguyện của đối phương trong vũ trụ. (Kiểm soát không gian phòng thủ), và các kiến thức tiên đoán hiện tại, tiên đoán về môi trường không gian và môi trường đang vận hành mà các hoạt động của không quân phụ thuộc vào (nhận thức tình huống trong không gian).
Hỗ trợ không gian là: Các hoạt động để triển khai và duy trì các hệ thống quân sự và tình báo trong vũ trụ. Vùng nhiệm vụ này bao gồm: khởi động và triển khai các phương tiện không gian, duy trì và khởi động các tàu vũ trụ trên quỹ đạo, hẹn giờ và các hoạt động gần, xử lý (bao gồm cả phi quỹ đạo và phục hồi) khả năng không gian và phục hồi lực lượng không gian, nếu cần.
Hoa Kỳ đã tham dự nhiều cuộc chiến tranh, xung đột và chiến dịch trong đó đã thực hiện các chiến dịch quân sự từ trên không bao gồm:
Không lực Hoa Kỳ cũng tham gia vào nhiều chiến dịch nhân đạo. Một trong số các chiến dịch chính là:[21]
Không lực Hoa Kỳ là một trong ba bộ quân chủng nằm trong Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và bộ quân chủng này nằm dưới quyền chỉ đạo của một vị bộ trưởng dân sự với sự giúp đỡ của một ban nhân sự và cố vấn. Giới lãnh đạo quân sự của bộ là Bộ tham mưu Không lực Hoa Kỳ do Tham mưu trưởng Không lực Hoa Kỳ lãnh đạo.
Các bộ tư lệnh và đơn vị trực thuộc Không lực Hoa Kỳ là các cơ quan điều hợp tại chỗ (field operating agency), đơn vị báo cáo trực tiếp (direct reporting unit), và cơ quan điều hợp riêng biệt (separate operating agency) hiện chưa dùng đến.
Bộ tư lệnh chủ lực (major command hay viết tắt là MAJCOM) là cấp bậc tư lệnh tối cao. Tính luôn Bộ tư lệnh Không lực Trừ bị (air force reserve command) thì Không lực Hoa Kỳ có đến 9 bộ tư lệnh chủ lực tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2006. Các không lực mang số (numbered air force) là cấp bậc bộ tư lệnh trực thuộc dưới quyền của các Bộ tư lệnh chủ lực, theo sau là Bộ tư lệnh hành quân (operational command hiện tại không còn sử dụng), rồi đến sư đoàn không lực (hiện nay cũng không còn dùng), không đoàn (wing), liên đoàn (group), phi đoàn (squadron), và phi đội (flight).
Tổng hành dinh, Không lực Hoa Kỳ, Lầu Năm Góc, Arlington, Virginia
Lực lượng thường trực của Không lực Hoa Kỳ, tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2006,[22] gồm có:
Không lực Hoa Kỳ, bao gồm các bộ phận không lực trừ bị, có tổng cộng 302 phi đoàn bay.[23]
Xếp loại công việc trong Không lực Hoa Kỳ được dựa theo Bộ mã chuyên môn không lực (Air Force Specialty Code). Các công việc này có phạm vi từ các hoạt động chiến đấu trên không, ví dụ như xạ thủ trên phi cơ, cho đến các công việc lo ăn uống cho các thành viên. Có nhiều công việc khác nhau tại chỗ như chuyên viên vi tính, chuyên viên cơ khí, quân nhân phi hành, hệ thống thông tin, chuyên viên phi hành, chuyên viên y tế, kỹ sư công chính, pháp lý, cố vấn đặc trách chống ma tuý, các hoạt động thư tín, lực lượng an ninh không lực, tìm kiếm và cứu nạn.[24]
Có lẽ công việc nguy hiểm nhất là công việc tháo gỡ chất cháy nổ, giải cứu lúc chiến đấu, an ninh không lực, điều hợp chiến đấu (Combat Control Team), chuyên viên thời tiết đặc trách các chiến dịch đặc biệt của không lực (Air Force Special Operations Weather Technician). Các nhân sự này thường đi cùng với bộ binh và các đơn vị hành quân đặc biệt để tháo gỡ bom mìn, giải cứu các phi công bị bắn rơi hay các binh sĩ bị bao vây, gọi phi cơ đến không kích, và lập các khu vực đổ quân tại những vị trí tiền phương. Đa số các công việc này là thuộc nhóm binh sĩ không lực chuyên môn.
Gần như các công việc của binh sĩ chuyên môn là bậc mới vào nghề. Có nghĩa là Không lực Hoa Kỳ phải cung cấp sự huấn luyện cho các binh sĩ chuyên môn. Một số binh sĩ chuyên môn có thể chọn công việc nào đó hay một lĩnh vực nào đó trước khi gia nhập trong khi cũng có các binh sĩ khác được giao nhiệm vụ vào lúc bắt đầu được huấn luyện căn bản. Sau khi hoàn thành khoá huấn luyện cơ bản, các binh sĩ mới sẽ tham dự khoá huấn luyện kỹ thuật để học ngành chuyên môn của mình. Không lực số 2 (Second Air Force), một bộ phận của Bộ tư lệnh Huấn luyện và Giáo dục Không lực, đặc trách nhiệm vụ huấn luyện kỹ thuật cho gần như tất cả các binh sĩ không lực.
Các chương trình huấn luyện dài ngắn tuỳ theo; ví dụ, 3M0X1 (dịch vụ) có thời gian huấn luyện là 31 ngày trong khi 3E8X1 (tháo gỡ chất cháy nổ) có thời gian huấn luyện là 1 năm căn bản rồi sau đó học tiếp một trong 10 chuyên ngành khác. Đôi khi một học viên phải mất đến 2 năm để hoàn tất việc huấn luyện.
Các cấp bậc của không lực được chia thành các binh sĩ không lực, hạ sĩ quan không lực và sĩ quan không lực.
Các cấp bậc sĩ quan của Không lực Hoa Kỳ được chia thành ba cấp: cấp uý, cấp tá và cấp tướng. Cấp uý là các sĩ quan nằm trong biên chế tính lương bậc O-1 đến O-3, cấp tá từ O-4 đến O-6, và cấp tướng từ O-7 trở lên.
Hiện tại việc thăng chức từ thiếu uý lên trung uý gần như được bảo đảm sau thời gian hai năm phục vụ tốt. Từ bậc trung uý lên đại uý cần phải phấn đấu mang tính cạnh tranh sau khi phục vụ thành công thêm hai năm nữa. Từ thiếu tá trở lên cần phải có sự duyệt xét của ban cứu xét thăng cấp. Hồ sơ của một sĩ quan sẽ được một hội đồng tuyển chọn xem xét tại Trung tâm Nhân sự Không lực Hoa Kỳ ở Căn cứ Không quân Randolph nằm ở thành phố San Antonio, Texas. Việc xét thăng cấp này xảy ra khoảng thời điểm giữa từ 7 đến 10 năm phục vụ và chỉ có một vài phần trăm đại uý không lực được xét thăng cấp lên thiếu tá. Việc xét thăng cấp lập lại ở thời điểm giữa từ 11 đến 14 năm để thăng cấp lên bậc trung tá, và rồi khoảng thời điểm 18 năm để xét thăng bậc lên đại tá.
Mặc dù theo luật định thì có nhưng Không lực Hoa Kỳ hiện nay không sử dụng cấp bậc chuẩn uý. Cấp bậc này thấy lần cuối cùng trong không lực là chuẩn uý James H. Long, về hưu năm 1980, và lần cuối cùng trong Không lực trừ bị là chuẩn uý Bob Barrow năm 1992.[25]
Thành viên binh sĩ và hạ sĩ quan (được gọi chung trong tiếng Anh là enlisted airmen) trong Không lực Hoa Kỳ có bậc lương từ E-1 (entry level: mới gia nhập) đến E-9 (senior enlisted: binh sĩ thâm niên). Trong khi tất cả các nhân sự của Không lực Hoa Kỳ được gọi là Airmen, thuật từ này cũng dành để gọi các bậc lương từ E-1 đến E-4. Các bậc lương này nằm dưới bậc của các hạ sĩ quan. Trên bậc lương E-4 (từ E-5 đến E-9 chẳng hạn), các cấp bậc này rơi vào nhóm gọi là hạ sĩ quan và nhóm hạ sĩ quan này được chia thành hai nhóm nhỏ là hạ sĩ quan (bậc lương E-5 và E-6) và Hạ sĩ quan cao cấp (bậc lương từ E-7 đến E-9); thuật từ Junior NCO có nghĩa là hạ sĩ quan cấp thấp đôi khi được dùng để chỉ bậc lương từ E-5 và E-6).[26]
Không lực Hoa Kỳ là quân chủng duy nhất trong năm quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ mà bậc hạ sĩ quan không được công nhận cho đến khi một binh sĩ không lực được thăng bậc lương lên đến E-5. Trong tất cả các quân chủng khác thì hạ sĩ quan được công nhận khi đến bậc lương E-4 (Ví dụ như hạ sĩ trong Lục quân Hoa Kỳ và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ). Tuy nhiên bậc lương E-4 trong Lục quân Hoa Kỳ với cấp bậc chuyên viên (Specialist) thì không được công nhận là hạ sĩ quan.
Tính đến năm 2004, Không quân Hoa Kỳ có trên 5.778 phi cơ đang được sử dụng. Cho đến năm 1962, Lục quân và Không quân Hoa Kỳ đã duy trì một hệ thống gọi tên phi cơ trong khi Hải quân Hoa Kỳ có một hệ thống gọi tên riêng biệt. Năm 1962, các cách gọi tên phi cơ đã được thống nhất thành một hệ thống duy nhất phản ánh phương pháp của Lục quân và Không quân. Để biết thêm chi tiết về sự hữu hiệu của hệ thống này xin xem United States Department of Defense aerospace vehicle designation. Các loại phi cơ của Không quân gồm có:
Các phi cơ cường kích của Không quân Hoa Kỳ được chế tạo cho mục đích tấn công các cứ điểm trên mặt đất. Chúng thường được sử dụng để hỗ trợ bộ binh Hoa Kỳ. Vì phải thực hiện tấn công mục tiêu gần vị trí của các lực lượng bạn nên việc sử dụng chúng là điều cần thiết khi mà các loại phi cơ ném bom không thể nào được sử dụng. Chính vì là loại phi cơ hỗ trợ gần cho bộ binh nên vai trò của chúng có tính cách chiến thuật hơn là chiến lược. Chúng hoạt động ngay tại mặt trận hơn là tấn công sâu bên trong hậu tuyến của quân địch.
Trong Không quân Hoa Kỳ, thật là mơ hồ để phân biệt giữa oanh tạc cơ (bomber), oanh tạc-khu trục cơ (fighter-bombers), và khu trục cơ. Nhiều phi cơ cường kích, thậm chí có cả những chiếc trông giống khu trục cơ được sử dụng để thả bom với rất ít khả năng chiến đấu trên không. Có nhiều khu trục cơ như F-16 được dùng như các "xe tải bom" mặc dù chúng được thiết kế chỉ để tham chiến trên không chống phi cơ khác. Có lẽ sự khác biệt mang tính ý nghĩa nhất là vấn đề tầm bay của chúng: oanh tạc cơ thường là loại phi cơ có tầm bay xa, có khả năng đánh vào các mục tiêu sâu trong lãnh thổ của quân địch trong khi các oanh tac-khu trục cơ và phi cơ cường kích chỉ có giới hạn thực hiện nhiệm vụ của mình tại mặt trận và xung quanh khu vực mặt trận. Tuy nhiên sự khác biệt này cũng gặp bế tắc vì sự hiện diện của các phi cơ tiếp nhiên liệu trên không làm tăng thêm bán kính chiến đấu của các loại phi cơ này. Cùng với Nga, Hoa Kỳ là quốc gia có oanh tạc cơ chiến lược.
Phần lớn các oanh tạc cơ của Hoa Kỳ trở nên già cỗi nhanh chóng. Loại phi cơ chính yếu B-52 Stratofortress đã có tuổi đời trên 50 năm, và chúng vẫn được lên kế hoạch để phục vụ thêm 30 năm nữa. Như vậy thời gian sử dụng loại oanh tạc cơ chính yếu này kéo dài tổng cộng trên 80 năm. Đây là thời gian phục vụ chưa từng có đối với một loại phi cơ. Các kế hoạch để thay thế lực lượng oanh tạc cơ chiến lược vẫn chỉ nằm trên giấy mực.
Không quân Hoa Kỳ có thể cung cấp sự vận chuyển toàn cầu nhanh chóng. Khi mà lực lượng Hoa Kỳ đóng quân ở ngoại quốc tiếp tục giảm nhưng sự quan tâm của Hoa Kỳ trên thế giới vẫn như vậy thì vai trò chuyển vận của Không quân Hoa Kỳ lại cần thiết hơn. Sự chuyển vận bằng hàng không là tài sản quý giá của quốc gia để đối phó với những tình hình khẩn cấp và bảo vệ ích lợi của Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới.
Các loại vận tải cơ đặc biệt được sử dụng để vận chuyển binh sĩ, vũ khí và các quân dụng khác bằng nhiều cách khác nhau để đến bất cứ khu vực nào trên thế giới có sự hoạt động quân sự của Hoa Kỳ, thường thường là nằm ngoài các đường bay thương mại trong các vùng không gian không có kiểm soát không lưu. Các cỗ máy chính của Bộ tư lệnh vận chuyển hàng không của Không quân Hoa Kỳ là các vận tải cơ C-130 Hercules, C-17 Globemaster III, và C-5 Galaxy. Các phi cơ này được xếp loại phần lớn bằng khả năng bay xa của chúng, ví dụ như vận tải chiến thuật (C-5), chiến lược/chiến thuật(C-17), và chiến thuật (C-130) để phản ánh nhu cầu của các lực lượng mặt đất mà chúng thường hỗ trợ nhất. Phi cơ CV-22 được Không quân Hoa Kỳ sử dụng cho Bộ tư lệnh hành quân đặc biệt (U.S. Special Operations Command). Nó thực hiện các nhiệm vụ tầm xa và đặc biệt và được trang bị với các bình xăng phụ và hệ thống rada dò đường.
Các máy bay vận tải được không quân hoa kỳ sử dụng bao gồm:
Mục đích của chiến tranh điện tử là không cho phép kẻ thù có lợi thế về hệ thống điện từ và bảo đảm cho phép lực lượng bạn tiếp cận được môi trường thông tin điện từ. Các phi cơ đặc trách chiến tranh điện tử có nhiệm vụ là tạo ra không gian thân thiện và gởi các tín hiệu thông tin mật cho lực lượng bạn khi cần đến. Chúng thường được mệnh danh là "mắt trên bầu trời."
Các khu trục cơ của Không quân Hoa Kỳ là các phi cơ quân sự nhỏ, nhanh, chuyển động linh hoạt, chủ yếu được sử dụng cho chiến đấu không đối không. Nhiều loại phi cơ này có khả năng thứ hai là tấn công mặt đất. Một số có hai tính năng được gọi là oanh tạc-khu trục cơ (Ví dụ như F-16 Fighting Falcon). Các nhiệm vụ khác còn có đánh chặn oanh tạc cơ và chiến đấu cơ của địch, thám thính, và tuần tra. Trong số 5.778 phi cơ có người lái đang phục vụ có 2.162 chiếc là khu trục cơ trong số đó có 1.280 chiếc F-16 Fighting Falcon với nhiều chủng loại khác nhau.
Từ năm 2006 đến 2025, Không quân Hoa Kỳ có kế hoạch giảm 28% số phi cơ chiến thuật.[27]
Các phi cơ được dùng cho mục đích tìm kiếm và giải cứu trên bộ.
Các phi cơ tiếp nhiên liệu trên không của Không quân Hoa Kỳ là các kiểu phi cơ phản lực dân sự được sửa đổi lại để phục vụ quân đội. Thường thường các phi cơ tiếp nhiên liệu đều được thiết kế đặc biệt cho mục đích này nếu như hệ thống "probe and drogue" được sử dụng mặc dù các bình tiếp liệu vẫn có thể lắp đặt vào trong các kiểu phi cơ sẵn có. Hoạt động tiếp nhiên liệu cho phi cơ dân sự chưa từng nghe nói đến. Trong những chiến dịch rộng lớn hay thậm chí là các hoạt động bay hàng ngày, việc tiếp nhiên liệu trên không thường được thực hiện rộng rãi; các khu trục cơ, oanh tạc cơ và vận tải cơ phụ thuộc nhiều vào các phi cơ "tiếp nhiên liệu" ít được người ta biết đến. Điều này làm cho các phi cơ tiếp nhiên liệu này trở thành một phần thiết yếu của Không quân Hoa Kỳ về mặt linh động toàn cầu.
Hệ thống vũ khí trên không sử dụng tia laser (gọi tắt tiếng Anh là ABL) được đặt bên trong một phi cơ Boeing 747-830F được sửa đổi lại cho phù hợp với mục đích của nó. Đây là một hệ thống phòng thủ chống tên lửa nhằm phá hủy các tên lửa đạn đạo chiến thuật đang trong giai đoạn chưa tách ra khỏi phần đẩy.
Các phi cơ đa nhiệm vụ đặc biệt cung ứng sự hỗ trợ cho các sứ mệnh đặc biệt toàn cầu. Các phi cơ này tiến hành thâm nhập, thoát ra, tiếp vật liệu, nhiên liệu cho các toán biệt động từ các đường băng ngắn hoặc đường băng ngẫu nhiên.
Các thế hệ đầu tiên của loại phi cơ không người lái chủ yếu là loại phi cơ trinh sát, nhưng cũng có một số được trang bị với vũ khí (Ví dụ như MQ-1 Predator có trang bị tên lửa không đối đất AGM-114 Hellfire cho nhiệm vụ đối đất hay tên lửa AIM-9 Sidewnider cho yểm trợ đường không).
Các phi cơ này được sửa đổi để quan sát (bằng mắt thường hay phương tiện khác) và báo cáo thông tin chiến thuật có liên quan đến sự tập kết và sự phân tán các lực lượng địch.
Phi cơ thám thính của Không quân Hoa Kỳ được sử dụng để theo dõi hoạt động của quân địch, ban đầu chúng không có trang bị vũ khí. Một số phi cơ điều khiển từ xa, không người lái được phát triển và triển khai. Hiện tại, các phi cơ không người lái được nhìn nhận là phương tiện vũ khí ít tốn kém và có khả năng chiến đấu mà không lo sợ phải mất phi công.
Ghi chú: Mặc dù U-2 được xếp vào loại phi cơ "tiện ích" nhưng nó thực sự thuộc loại phi cơ thám thính.
Các phi cơ huấn luyện của Không quân Hoa Kỳ được sử dụng để huấn luyện các phi công và các thành viên phi hành khác.
Một số máy bay lượn được sử dụng bởi USAF, chủ yếu được sử dụng cho huấn luyện bay phi công tại Học viện Không lực Hoa Kỳ.
Phi cơ tiện ích chủ yếu được sử dụng vào lúc cần thiết cho một việc gì đó. Ví dụ, trực thăng Huey có thể được sử dụng để chuyên chở nhân sự quanh một căn cứ quân sự lớn hay một chỗ tập kết trong khi nó cũng có thể được sử dụng để di tản. Các phi cơ này là các phi cơ thường hay được sử dụng quanh năm.
Các phi cơ này được dùng để chuyên chở các nhân vật quan trọng trong đó phải kể đến những nhân vật nổi bật là Tổng thống Hoa Kỳ, Phó Tổng thống Hoa Kỳ, các bộ trưởng, quan chức chính phủ (Ví dụ như các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ), Tổng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ và các nhân vật quan trọng khác.
Các phi cơ này được sử dụng để nghiên cứu các sự kiện về khí tượng như bão.
Các tên lửa LGM-30 Minuteman là tên lửa liên lục địa đạn đạo đang phục vụ cho nước Mỹ (ICBM), đang phục vụ trong Không quân lệnh tấn công toàn cầu. Tính đến năm hiện nay, phiên bản LGM-30G Minuteman III là ICBM duy nhất trên đất liền phục vụ tại Hoa Kỳ. Không quân Hoa Kỳ hiện nay đang sở hữu hơn 450 quả tên lửa LGM-30 Minuteman
Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa LGM-30G Minuteman III